http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Hoc-xong-o-nuoc-ngoai-khong-muon-ve-nuoc-co-cam-luon-du-hoc-post141820.gd
Xung quanh câu chuyện bồi dưỡng và
phát triển nguồn nhân lực, Báo điện tử Giáo dục Việt Nam có cuộc trao
đổi với ông Trần Đức Cảnh, ông Cảnh từng có 16 năm kinh nghiệm quản lý
và xây dựng chính sách cho các Chương trình Đào tạo và Phát triển Nguồn
Nhân lực tại Bang Massachusetts (Mỹ), và hơn 10 năm làm công tác tư vấn
cho đại học Harvard trong công tác tuyển sinh cấp cử nhân.
Ông Cảnh nói, có thể một vài năm tới
nguồn lực đi xuất khẩu lao động sẽ không gọi như vậy mà thay thế bằng
tên gọi khác, hạn chế xuất khẩu lao động mà cần tập trung phát triển
ngay trong nước. Chúng ta đang gặp một bế tắc, tất nhiên tôi nói ở đây
gồm cả góc độ kinh tế chứ không nhất thiết phải là giáo dục. Tôi nghĩ
chúng ta còn phát triển hơn thế nếu như những năm 1990 chúng ta tận dụng
cơ hội tốt và việc gia nhập WTO không chỉ phải đợi tới năm 2007.
Một môi trường làm việc, kinh doanh
thuận lợi sẽ thu hút được nguồn đầu tư. Một số công ty lớn của Nhật Bản
hiện nay đang có xu hướng rút dần khỏi Trung Quốc vì họ nhận thấy môi
trường ở đây có thể dẫn đến xung đột, và không một công ty lớn nào dám
“bỏ hết trứng vào một rổ”.
![]() |
Ông Trần Đức Cảnh. Ảnh Xuân Trung |
Việt Nam có 90 triệu dân, đang ở vào một
vị trí tuyệt vời để Nhật Bản vào đầu tư, nhưng tại sao không vào Việt
Nam mà các công ty lớn của Nhật lại chạy xuống Indonesia? Lý do hoàn
toàn ở chính chúng ta, tất cả đều gắn với phát triển nguồn nhân lực.
Học nước ngoài về không có môi trường ứng dụng
Ông làm việc ở Mỹ khá dài, theo ông nguồn nhân lực ở nước này được xây dựng ra sao?
Ở Mỹ, mọi vấn đề về nền tảng cơ bản đã
có, một xã hội có nền nếp tốt. Tính sáng tạo của người Mỹ cao, họ khuyến
khích sáng tạo để thay đổi, thậm chí còn hơn Châu Âu. Từ sáng tạo đã mở
cửa cho nhiều thứ khác, chấp nhận cái mới, thay đổi và mang tính thực
dụng.
Nguồn nhân lực ở đây được tổ chức ở
các cấp học, ở Mỹ có tới 98% người tốt nghiệp trung học, cơ sở giáo dục
thay đổi liên tục (thực tiễn), mô hình tổ chức và trách nhiệm lại nằm ở
địa phương, giống như trường trung học, tiểu học, lớp mẫu giáo. Địa
phương có quyền và địa phương bầu lên hội đồng trường, chính cách đó
được tiếp cận gần gũi và không có chính sách trên trời như ở mình.
Ngân sách hoạt động cũng nằm ở địa phương, do địa phương thu thuế và chi cho sinh hoạt của trường.
Vậy Việt Nam có thể áp dụng được những gì từ Mỹ?
Hệ thống này khó áp dụng ở Việt Nam,
chúng ta có thể áp dụng một mô hình khác vì trình độ dân trí mình chưa
đạt được như vậy. Thứ hai, ở chúng ta mọi thứ phải đều tập trung ở nhà
nước.
Ở Mỹ tính cạnh tranh rất cao, với
những trường đào tạo nguồn nhân lực sinh viên tốt nghiệp ra không có
việc thì chính trường cũng bị ảnh hưởng.
Thực trạng “chảy máu” nguồn nhân lực
của chúng ta là có, với quan sát của ông thì các nước khác có tình
trạng này không? Sinh viên du học có trở về nước làm việc?
Trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay
có bằng cử nhân nước ngoài là chịu chết, bởi khi về nước tính ứng dụng
rất kém, chỉ khoảng 10% trên tổng số trở về mà thôi. Vì sao thế? Môi
trường của Việt Nam khác với môi trường các nước nên nhiều em khi về
nước đều bỏ cuộc.
Ở nước ngoài không có chuyện nể nang hay
con người này, cháu người kia. Làm được như thế nào thì đều được ghi
nhận và trả lương xứng đáng. Không bao giờ có chuyện đi xin xỏ.
Ở Mỹ học càng thấp thì càng bị vướng,
không có chuyện du di, nhưng học cử nhân ở Việt Nam xong rồi qua bên Mỹ
học thạc sĩ thì về có thể dùng được, vì sao? Vì thời gian học cử nhân
trong nước người học đã lớn tuổi, đã hiểu môi trường và cách làm việc
của Việt Nam, giờ sang chỉ học về chuyên môn, kĩ thuật.
Hơn nữa, lương bổng của chúng ta quá
thấp, bên kia nếu tốt nghiệp chuyên ngành KHXH&NV cũng tầm 40-50
nghìn USD/năm, còn kĩ sư mới ra trường ngành kĩ thuật khoảng 65 nghìn
USD/năm.
Du học về hy vọng được trả lương cao
Như vậy nếu ra ngoài học cử nhân thôi về nước khó làm việc, vậy có nên du học nữa không?
Đó là nguyện vọng của cha mẹ. Tôi bảo
đảm những suy nghĩ của cha mẹ khoảng hơn 50% muốn cho con đi mà không
muốn con về. Như vậy là đã có suy nghĩ trước. Vậy còn lại khoảng gần 50%
lựa chọn về nước, ở đây có hai trường hợp: Thứ nhất, nếu gia đình có
tiền (phần lớn là người có tiền) thì thành lập công ty gia đình hoặc làm
việc cho người thân,…lúc đó lương không là vấn đề, sở hữu mới là vấn
đề.
Thứ hai, các công ty nước ngoài có khả
năng đầu tư vào Việt Nam, với suy nghĩ con mình cũng được trở về nước và
hội nhập. Và hy vọng được trả lương cao.
Theo ông làm sao để nguồn nhân lực được đào tạo tại nước ngoài về nước có thể hòa nhập với môi trường nhanh chóng?
Mô hình phát triển kinh tế của chúng ta
phải so sánh với nước ngoài, giống như đi cùng hướng với nhau thì lúc đó
nguồn nhân lực mới phù hợp.
Hiện nay hệ thống kinh tế của ta phần
nào so với giai đoạn trước là tương xứng, nhưng cách làm việc của ta còn
lủng củng, lạc hậu, cục bộ. Những điều này người trẻ rất ngại làm. Nếu
khi ở trong nước người làm việc chỉ làm theo mô hình đó, không nhìn thấy
mô hình khác và chấp nhận được. Ngược lại, ở nước ngoài có sự chọn lựa
nhiều hơn.
Tôi nghĩ không nên hạn chế du học, những người có tiền cho con đi học nước ngoài thì không thể hạn chế được.
Một giả thiết không thành hiện thực
Một điều mà ai cũng biết, đó là
những quan chức. doanh nhân phần lớn đều cho con cái họ ra nước ngoài du
học, phải chăng giáo dục trong nước không đủ để họ tin tưởng?
Có giả thiết nếu chúng ta cấm hết không
cho học sinh đi du học nữa, lúc đó hệ thống giáo dục trong nước sẽ thay
đổi rất nhanh. Bởi chính những người quản lí phải có những thay đổi chất
lượng giáo dục lên bước mới để cho chính con cái mình, chính con em của
mình học. Đó là một động cơ để cho giáo dục đi lên, nhưng điều này hoàn
toàn không làm được.
Giờ chúng ta chỉ có cách, số người đi
du học theo đề án nhà nước thì phải điều chỉnh lại cho phù hợp hơn, có
thể tăng nguồn học bổng đó lên, điều kiện, môi trường trong nước cũng
phải thay đổi nhanh để “hợp thức hóa” với nguồn ở nước ngoài về.
Nhiều người nghĩ du học xong ở lại nước
họ làm việc, không về nước bị cho là không yêu nước, hoàn toàn không
phải vậy, bởi họ cũng có một suy nghĩ gia đình bỏ ra bao nhiêu tiền để
đi du học mà về nước không dùng được, tài năng không được trọng dụng thì
về làm gì? Mấu chốt là ở đây.
Trung Quốc là ví dụ, du học sinh Trung
Quốc hàng năm sang Mỹ học rất đông, nhưng số trở về cũng rất đông vì
môi trường làm việc tại Trung Quốc tốt, chúng ta từ đây tới đó còn xa,
nhưng chí ít chúng ta phải có con đường cụ thể, hội nhập như thế nào,
kêu gọi kinh tế đầu tư như thế nào. Nguồn nhân lực này không vào được
các cơ quan nhà nước thì ít nhất cũng được sử dụng bởi các công ty nước
ngoài.
Chúng ta phải dứt khoát một con đường,
hiện nay đang cần hội nhập và xây dựng nền tảng chuyển giao công nghệ.
Những người đi du học sẽ quay về, tuổi trẻ đi du học có điều kiện về
nước là họ về ngay. Nhưng vì tuổi trẻ nghĩ mình có khả năng, còn năng
lực thì làm việc nơi nào có điều kiện cho mình phát triển. Giữa hai sự
lựa chọn, nếu học nước ngoài về nước sẽ bị bó buộc, cái hiểu biết và
chuyên môn của mình có thể bị mai một. Hai là ở nước ngoài, điều kiện
sinh sống chưa chắc đã bằng trong nước, nhưng dù sao thử thách có và
tuổi trẻ cần thử thách.
Ông có ý tưởng gì giúp Việt Nam trong việc huy động học bổng cho học sinh, sinh viên?
Vấn đề này tôi có thể giúp được, tôi
đang có ý tưởng vận động người Việt Nam đi học tại Mỹ nhưng kinh phí có
thể vay của Chính phủ Mỹ, không tính lãi, nhưng Việt Nam phải ký nợ. Vấn
đề này thì không phức tạp, chương trình này đang nhận 1.000 người/năm,
kế hoạch 10 hay hơn 10 năm là tùy, chủ yếu đào tạo về kỹ thuật, công
nghệ.
Nếu đào tạo tiến sỹ là 5 năm, đào tạo
một cách bài bản theo chương trình của Mỹ. Thí dụ đào tạo 1000 sinh
viên/năm thì tôi vận động được khoảng 100 trường đại học hàng đầu của
Mỹ, 4 năm đầu học sinh chưa về phải từ năm thứ 5 mới bắt đầu về nước, cứ
mỗi năm về khoảng 700 người (đã trừ số bị loại). Theo đó thì đất nước
phải có kế hoạch cụ thể, 700 tiến sỹ này có thể hướng dẫn cho sinh viên
trong nước.
Chúng ta đào tạo tiến sỹ thì không có
gì sai, nhưng đào tạo không có chuẩn thì cho ra những người không chuẩn.
Với nguồn vay này là 15 năm thì đó là rất hiệu quả. Năm đầu có thẻ tốn
50 nghìn USD/sinh viên, những năm sau lấy học bổng và có thể giúp việc
cho những người thầy bên đó, chưa phải là nghiên cứu sinh nhưng có thể
giúp thầy và phụ giảng có trả lương.
Như vậy sẽ đào tạo cho mình một nguồn
lực tập trung vào khoa học kỹ thuật trong các trường đại học lớn, có thể
nghiên cứu hoặc đi làm trong các công ty tư nhân. Mục tiêu chỉ cần đào
tạo 10.000 tiến sỹ là đủ. Sau nguồn này sẽ được nhân lên nhiều hơn.
Trân trọng cảm ơn ông.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét